Rừng tràm Cà Mau. Ảnh: Sưu tầm
Đại hội X của Đảng bộ huyện U Minh vừa thông qua báo cáo chính trị xác định mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp nhiệm kỳ 2015-2020, trong đó có chỉ tiêu chủ yếu đến năm 2020 giữ tỉ lệ che phủ rừng và cây phân tán 41%. Quan điểm chỉ đạo xác định khâu đột phá trong nhiệm kỳ là: phát triển kinh tế rừng (bao gồm trồng rừng thâm canh, sản phẩm sạch dưới tán rừng và du lịch sinh thái). Giám đốc Công ty trình bày tham luận như sau:
Hiện nay Công ty đang quản lý 25.272 ha đất lâm nghiệp, diện tích có rừng 15.838 ha. Trong đó: rừng thâm canh 7.480 ha (keo lai: 2.700 ha, tràm bản địa: 4.707ha, tràm úc: 73 ha) và rừng tràm quảng canh 8.358 ha.
Thời gian qua được sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, UBND tỉnh, Huyện ủy, UBND huyện, Công ty triển khai cho các hộ nhận khoán rừng và đất lâm nghiệp và bộ phận trực thuộc Công ty thực hiện tốt công tác trồng rừng, quản lý bảo vệ rừng, phòng cháy, chữa cháy rừng, khai thác rừng kết quả như sau:
Công tác quản lý bảo vệ rừng trồng: Công tác quản lý bảo vệ rừng; Phòng cháy, chữa cháy rừng (PCCCR), trồng rừng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt được đặt ra cho quá trình tổ chức sản xuất kinh doanh của Công ty; Công ty đã tăng cường đẩy mạnh công tác tuần tra, kiểm tra ngăn chặn tình trạng lấn chiếm, đào bới đất rừng và đưa nước mặn vào đất lâm nghiệp nuôi tôm; Công tác quản lý bảo vệ rừng, phòng cháy chữa cháy rừng được quan tâm của cấp, các ngành và của nhân tỉnh nhà. Công ty là đơn vị chủ công đã triển khai các biện pháp trong công tác quản lý như: Xử lý thực bì làm giảm vật liệu gây cháy, xác định vùng trọng điểm dễ xảy ra cháy để chủ động trong công tác PCCCR, khi phát hiện có lửa rừng lực lượng trực chòi quan sát lửa xác định chính xác vị trí, điều động nhân lực, phương tiện, máy móc thiết bị tiếp cận đám cháy dập tắt không để xảy ra cháy lớn, cháy lan. Kết quả, nhiều năm qua công tác quản lý bảo vệ rừng mang lại kết quả là không để xảy ra cháy rừng với diện tích lớn; rừng mang lại hiêu quả kinh tế cao.
Mô hình sản xuất kinh doanh có hiệu quả ngày càng cao: Khâu đột phá trong kinh tế rừng là, những năm qua Công ty đã tập trung đầu tư trồng rừng theo phương thức thâm canh rừng, áp dụng từ khâu chọn giống, cách làm đất và loài cây trồng phù hợp với đất nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng sản phẩm lâm nghiệp. Hiện nay đã phủ xanh toàn bộ diện tích đất trống sau khai thác rừng, rừng trồng sinh trưởng phát triển tốt, trữ lượng rừng trồng tăng hơn so với rừng trồng những năm trước, hạn chế đến mức thấp nhất xảy ra cháy rừng.
Kinh tế rừng được xác định là sản xuất, kinh doanh tổng hợp. Phát triển rừng, cây trồng chính là cây tràm truyền thống và cây keo lai; nuôi trồng thủy sản kết hợp; tổ chức sản xuất kinh doanh tổng hợp nông - lâm - thủy sản để phát triển bền vững. Từ đó để hình thành giá trị của sản phẩm lâm nghiệp tổng hợp và đan xen, tăng sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và thế giới.
Về kỹ thuật trồng rừng: chuẩn bị mặt bằng trồng rừng phù hợp cây giống với điều kiện đất của từng khu vực, thực hiện đào kê liếp trồng rừng thâm canh thay thế trồng quảng canh truyền thống; Khâu chọn giống trồng rừng có nguồn gốc, được cấp thẩm quyền xác nhận công nhận đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế. Hiện nay trên địa bàn công ty ngoài cây tràm bản địa công ty còn trồng thêm 02 loài cây (keo lai và tràm úc) 2 loài cây này được Bộ NN và PTNT cho phép trồng trên địa bàn tỉnh Cà Mau, đặc tính cuả cây là ưa sáng, sinh trưởng và phát triển nhanh, cho trữ, sản lượng rừng cao, rút ngắn chu kỳ kinh doanh rừng, hạn chế công tác PCCCR.
Hiệu quả kinh tế từng mô hình: trồng rừng thâm canh, kê liếp (lên liếp) làm giảm vật liệu gây cháy, chất lượng rừng trồng tốt, trữ lượng rừng cao. Đây là mô hình trồng rừng mang lại hiệu quả kinh tế cao và rút ngắn chu kỳ kinh doanh rừng. Cụ thể như: còn trồng rừng thâm canh sau 7 năm (2008 - 2015) trữ lượng trên 170m3/ha doanh thu từ 85 triệu đồng đến 100 triệu đồng/ha; trồng tràm quảng canh sau 9 năm (2006 - 2015) khai thác trữ lượng bình quân 70 m3/ha; giá bán lâm sản rừng quảng canh sau 9 năm từ 40 triệu đến 45 triệu đồng/ha; trồng keo lai thâm canh ( kê liếp) sau 5 năm (2010 - 2015) trữ lượng bình quân trên 280m3/ha, có những nơi được chăm sóc, tác động các biện pháp kỹ thuật lâm sinh trữ lượng trên 320 m3/ha, giá bán lâm sản rừng trên 180 triệu đồng/ha. Tóm lại nếu trồng keo lai thâm canh thời gian thu hoạch ngắn hơn (5 năm), doanh thu cao hơn ( 180 triệu đồng/ ha).
Đổi mới phương thức kinh doanh: Đây là khâu quan trọng trong sản xuất kinh doanh rừng mang lại nguồn thu cho các hộ dân nhận khoán và công ty. Thời gian qua thực hiện hình thức đấu thầu cây đứng và đấu thầu công khai đúng quy định đối với khu vực quốc doanh và hợp tác đầu tư; khai thác rừng quanh năm (kể cả khai thác trong mùa khô), nhằm tăng giá trị lâm sản bán ra, chuẩn bị mặt bằng trồng rừng trong năm rút ngắn được thời gian kinh doanh rừng.
Đối với khu vực lâm phần dân cư và hợp tác đầu tư, công ty tiếp tục chỉ đạo khảo sát ngoại nghiệp có sự tham gia của hộ dân, xây dựng phương án thiết kế khai thác rừng hàng năm theo quy định, triển khai phương án đến tận hộ dân, tổ chức giám sát như khai thác rừng đúng diện tích, vị trí, cột mốc đã phê duyệt trong phương án, đôn đốc nhắc nhỡ các khách hàng khai thác rừng đúng theo thời gian đã ký kết hợp đồng để kịp trồng lại rừng, tổ chức đóng cúp và báo cáo tiến độ khai thác rừng theo qui định.
Từ kết quả trên: Công ty tiếp tục tập trung đầu tư trồng rừng và chăm sóc rừng trồng, áp dụng thâm canh rừng, từ khâu chọn giống, làm đất và loài cây trồng phù hợp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng phục vụ cho bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế; Tổ chức sản xuất - kinh doanh tổng hợp nông - lâm - thủy sản để phát triển bền vững, mời gọi các thành phần kinh tế tham gia hợp tác đầu tư trong lĩnh vực sản xuất lâm - ngư - nông nghiệp. Thực hiện có hiệu quả mô hình trồng rừng thâm canh bền vững nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng sản phẩm lâm nghiệp, nghiên cứu rút ngắn chu kỳ kinh doanh, tổ chức lại sản xuất theo chuỗi sản phẩm (liên kết dọc), từ khâu trồng rừng, thu mua nguyên liệu đến khâu chế biến và tiêu thụ sản phẩm; tổ chức liên kết hợp tác các hộ nhận khoán đất rừng trồng rừng theo kế hoạch quản lý rừng chung của Tổ hợp tác/Hợp tác xã dịch vụ trên cơ sở hài hòa giữa kế hoạch sản xuất của hộ gia đình và kế hoạch chung của Tổ hợp tác/Hợp tác xã trong Công ty, nhằm có được diện tích đủ lớn và ổn định để có thể cung cấp khối lượng gỗ đủ lớn hàng năm cho thị trường.
Lâm Quang Gẫm ( lược ghi)